Có thể butanol sinh học thay thế ethanol sinh học trong nhiên liệu? (kỳ 1)

Ethanol, nhiên liệu sinh học dẫn đầu hiện hành đang có một số hạn chế. Butanol khắc phục được những điểm yếu này và có nhiều hứa hẹn như một thế hệ nhiên liệu quan trọng kế tiếp. (Kỳ 1) Nhiên liệu sinh học tại Mỹ, Braxin và một số quốc gia khác chủ yếu là ethanol được sản xuất từ quá trình lên men mía đường và bắp. Quá trình nổi tiếng hàng thế kỷ này còn được dùng cho sản xuất thực phẩm có cồn và các ứng dụng khác với mức quy mô công nghiệp. Sự phát triển công nghiệp sản xuất nhiên liệu ethanol tại Mỹ và nhiều nơi khác có động lực phát triển bởi những thách thức trước sự phát triển dân số, lệ thuộc năng lượng và sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Hình 1. Một góc của nhà máy sản xuất cồn sinh học cho xăng Tuy nhiên, tính chất của ethanol làm nó phần nào không tương thích với hầu hết các sản phẩm tinh luyện từ dầu mỏ, cũng như cơ sở hạ tầng từ hệ thống phân phối nhiên liệu, đến nạp liệu, và sử dụng trong động cơ. Ngoài ra, các nhà sản xuất nhiên liệu theo kiểu phối trộn ethanol đang phải đối mặt trước áp lực nhu cầu gia tăng không phải là động lực bởi nhu cầu khách hàng hay kinh tế mà đến từ các yếu tố chính trị và xã hội. Chuỗi giá trị ethanol sát nhập thực phẩm và nông nghiệp với dầu mỏ và hóa dầu- hai khu vực này có những khách hàng, văn hóa , công nghệ, mô hình điều hành kinh tế vĩ mô và kinh doanh khác nhau. Mới đây, ethanol gốc tinh bột bắp bị chỉ trích là có có lượng khí thải chứa carbon toàn phần gây hiệu ứng nhà kính cao và làm gia tăng giá thực phẩm trên thị trường thế giới.Tương tự như vậy , ethanol gốc từ mía đường cũng chịu sự phê phán không kém.

Nhiên liệu sinh học gây hấp dẫn các nhà đầu tư và sản xuất là loại mà nó có thể được dùng trực tiếp như nguồn bổ sung phụ trợ hoặc thay thế cho xăng dầu từ dầu mỏ, rằng nó có ít lượng khí thải toàn phần chứa carbon, và không gây cạnh tranh với nguồn cung cấp lương thực. Xét trong dãy các giá trị sản phẩm từ sinh khối dùng cho nhiên liệu sinh học, chúng ta đang có một đầu là các hydrocarbon có từ khí hóa cellulose hoặc lên men sinh khối phải mất thêm nhiều thế kỷ đế thương mại hóa.Đầu kia là ethanol đi từ celllulose, không có cạnh tranh gì nhiều với sản xuất thực phẩm và có lượng phát thải khí chứa carbon thấp hơn vẫn hãy còn là một nhiên liệu chưa thuận tiện.

Những tiềm năng của butanol

Trong ngắn hạn, giải pháp cho vấn đề ethanol là butanol sinh học (xem như hỗn hợp gồm n butanol và 1 –butanol ). Nó là sản phẩm từ công nghệ lên men đã được thương mại hóa và ứng dụng trên nhiều loại nền hydrocarbon khác nhau.

Tinh chất butanol gây hấp dẫn trong lĩnh vực nhiên liệu sinh học vì nó có thể trộn với xăng, dùng chung hệ thống phân phối và nạp liệu xăng, và chạy các động cơ chạy xăng dầu hiện hành được.Bảng 1 giới thiệu các tính năng phù hợp của butanol có so sánh ethanol và xăng. Những khác nhau về tính chất này đem lại cho butanol những ưu điểm chính yếu:

  • Butanol có thể vận hành thuận tiện trong các cơ sở hạ tầng dành cho chế biến, lưu trữ dầu mỏ kể cả vận chuyển bằng đường ống.

  • Butanol có thể trộn được với xăng hoặc dầu ở bất kỳ tỷ lệ nào. Vì vậy, nó làm giảm chi phí đầu tư liên quan đến việc làm mới lại nhà máy hoặc những thay đổi trong điều hành.

  • Butanol không hòa tan hay hấp thụ nước hoặc cặn bùn trong ống, thùng và các dụng cụ thiết bị khác.

  • Chỉ số octan và mật độ năng lượng của butanol gần với xăng và vì thế giá trị kinh tế của nhiên liệu này sẽ không gây giảm cấp như hỗn hợp ethanol với xăng.

  • Vì áp suất hơi của butanol thấp hơn xăng nên nó không làm tăng áp suất hơi Reid (Reid vapor pressure- RVP) của nhiên liệu. Đây là đặt tính then chốt cho xăng thành phẩm. Từ đó, chất làm tăng chỉ số octan rẻ tiền hơn như butane có thể được dùng trong hỗn hợp xăng – butanol trong mùa nóng.

  • Butanol có tính tan thấp trong nước cho nên butanol làm giảm thiểu sự rò rỉ và lan vào nước ngầm.

  • Giống như các rượu khác, butanol cũng có khả năng phân hủy sinh học giúp giới hạn các tác động xấu đến môi trường như biến cố rò rỉ hoặc chảy tràn.

[RIGHT](Còn tiếp) (Nguồn cyberchemvn.comTheo Chemical Engineering Magazine) [/RIGHT]

Sản xuất butanol có thể tận dụng cơ sở hạ tầng hiện hành của sản xuất ethanol. Quy trình hóa dầu oxo mang tính khả thi cao nhất để sản xuất butanol rẻ tiền hơn từ các nguồn sinh khối khác nhau.

Lên men tạo butanol khác với lên men tạo ethanol chủ yếu là tác nhân. Quá trình lên men tạo butanol dùng vi khuẩn, còn quá trình lên men tạo ethanol chủ yếu là nấm men. Lên men butanol tốn ít năng lượng hơn nhưng sơ đồ phân tách sản phẩm phức tạp hơn. Hiện trên thế giới có rất nhiều cơ sở hạ tầng và nhiều nhà máy sản xuất ethanol đi từ đường mía và cỏ. Sẽ là vấn đề chính trị và kinh tế khi phải bỏ tất cả các đầu tư cơ bản trước đây để tái tạo một hệ thống mới cho sản xuất nhiên liệu mới.

Tuy nhiên, may mắn thay, sản xuất butanol sinh học không gặp phải vấn đề này. Chỉ một số ít tiền dùng để cải tiến khu vực chưng cất của nhà máy (chủ yếu liên quan đến cụm nạp liệu, lên men, phân tách ban đầu, xử lý sản phẩm phụ, và ngoài nhà máy). Do vậy, các nhà máy sản xuất ethanol có thể nhanh chóng chuyển đổi và đáp ứng yêu cầu sản xuất butanol trước khi gặp phải nguy cơ khủng hoảng tăng vọt về nhu cầu nhiên liệu ethanol.

Ethanol tự nó có thể được khử nước (dehydrate hóa) và chuyển thành butanol hoặc phân đoạn xăng nhẹ nhờ xúc tác để thuận tiện hơn cho ứng dụng nhiên liệu. Công nghệ tương tự để chuyển ethanol thành ethylene cũng đã được thương mại hóa cách đây khá lâu và nay đang được dùng ở mức quy mô công nghiệp tại Brazil.

Vào nửa đầu thế kỷ 20, sản xuất butanol để làm dung môi, và các ứng dụng hóa học khác chủ yếu sử dụng quá trình lên men vi khuẩn tạo acetone- butanol-ethanol (ABE baterial fermentation process). Trải qua nhiều năm quá trình này được cải tiến nâng cao hiệu suất và để có thể tạo ra nhiều tỷ lệ khác nhau của ba sản phẩm dung môi. Người ta sử dụng nhiều dòng khuẩn Clostridium acetobutylicum, các nền chất như lõi bắp, cỏ và kể cả các hệ dinh dưỡng để cải thiện sự lên men.

Suốt thập niên 1950, quá trình ABE bị lu mờ bởi xuất hiện một quy trình hóa dầu sản xuất butanol có chi phí thấp hơn. Quy trình sản xuất đi từ quá trình tổng hợp oxo gốc propylen. Sử dụng xúc tác Davy Dow rhodium phosphite hữu cơ, quá trình tổng hợp tạo aldehyde từ proylene. Các aldehyde cộng hợp với nước tạo thành n-butanol cùng với sản phẩm phụ isobutaldehyde. Điều này đã làm cho sản phẩm butanol chỉ bị ảnh hưởng bởi giá thị trường của propylene theo nguồn cung từ hóa dầu và tinh luyện dầu mỏ vào thời điểm đó.

Cách đây vài năm, các nhà sản xuất, liên doanh đã tuyên bố về những khởi sự của họ trong phát triển thêm cơ sở hạ tầng cho ngành vi sinh để sản xuất trong quy mô phòng thí nghiệm rồi sản xuất thử cũng như thương mại hóa sản xuất và rao bán các nhà máy sản xuất butanol sinh học ở Trung quốc. Một dự án liên doanh giữa BP và Dupont về sản xuất butanol sinh học theo quy trình ABE tại Trung Quốc đã được thực hiện trong năm qua đang mang nhiều triển vọng thúc đẩy thị trường tiêu thụ nguồn nhiên liệu mới này.

Hơn nữa, nhiều nhà máy, bên cạnh quy trình đang dùng như ABE hay oxo cho vài chủng loại sinh khối, họ đều tuyên bố theo đuổi cải tiến đa dạng hóa nguồn sinh khối cho các quy trình trên.

Bảng sơ đồ các công nghệ sản xuất butanol sinh học

So với các dự án tiền khả thi khác như sản xuất ethanol từ cellulose, hydrocabon từ sinh khối, diesel từ tảo, thì sản xuất butalnol sinh học từ các nguồn sinh khối khác nhau đang có tính khả thi cao nhất. Với lợi thế từ quy trình oxo vốn đã có chi phí thấp, khi thành công trong thương mại hóa quy trình sản xuất butanol từ nguồn sinh khối đa dạng, chi phí giá thành sẽ còn thấp hơn và sẽ giúp cho thị trường có thêm nguồn cung ứng nhiên liệu dồi dào hơn trong tương lai.

[RIGHT](Nguồn cyberchemvn.com Theo Chemical Engineering)[/RIGHT]