Lý thuyết hóa học phổ thông

xinh thầy cho em hỏi:tại sao khi nung thanh sắt thì tạp chất lại tập trung tại phần bị nung

Tỉ trọng của Fe khoảng 7.2g/cm3 (tra tỉ trọng các vật liệu trong trang http://www.mcelwee.net/html/densities_of_various_materials.html). Trong khi đó tỉ trọng của inox thì tùy thuộc vào hàm lượng Crom (Ít nhất phải có trên 12% crom) dao động trong khoảng 7.6-8.0 g/cm3

Con người có lẽ đã ý thức về acid và baz từ thời tiền sử. Giấm, sữa chua, nước chanh đều có vị chua là các acid (tiếng Latin acere nghĩa là chua); baz liên quan trong các quá trình nung đá vôi tạo vôi tôi (CaO), nước rửa tro (Na2CO3 & K2CO3) trộn nước vôi Ca(OH)2 tạo NaOH & KOH; alkaline (baz) xuất phát từ tiếng Ả Rập al-qily nghĩa là roasting hay calcined ashes. Khoảng năm 700 các nhà giả kim Ả Rập đã điều chế được HNO3 và acid acetic. Kỹ thuật tạo xút từ tro đã có từ những năm 900. Khoảng năm 1200, H2SO4 được tổng hợp. Khoảng năm 1600, nhà máy nhỏ sx acid và muối (pư trung hòa) được xây dựng. Khoảng 1660, Robert Boyle phát hiện acid chuyển quỳ thành đỏ, baz chuyển quỳ thành xanh.

Lý thuyết acid - baz đầu tiên do Antoine Laurent Lavoisier đề xuất những năm 1770. Ông cho rằng tính acid là do oxygen tạo nên (HNO3, H2SO4). Lý thuyết này sụp đổ vào những năm 1800 khi Humphry Davy với acid HCl và Joseph Gay-Lussac với acid HCN cho thấy ko có oxygen trong phân tử.

Khoảng năm 1830, Justus von Liebig định nghĩa acid là chất chứa hydrogen có thể bị thay thế bởi kim loại và baz làm chất có thể trung hòa acid.

Khoảng năm 1880, lý thuyết acid baz Arrhenius ra đời. Arrhenius định nghĩa acid là chất phân ly trong nước cho H+, baz là chất phân ly trong nước cho OH-. Lý thuyết này có hạn chế như không giải thích được khi dung môi khác nước, tại sao NH3 là baz, H+ tồn tại trong nước dạng nào…

Lý thuyết Bronsted-Lowry ra đời năm 1923 là bổ sung quan trọng cho lý thuyết Arrhenius. Lý thuyết này định nghĩa acid là chất cho H+, baz là chất nhận H+. Lý thuyết này mở rộng rất nhiều các acid và baz. Lý thuyết này được dùng nhiều nhất trong thực tiễn.

Lý thuyết acid-baz tổng quát hơn lý thuyết Bronsted-Lowry cũng ra đời năm 1923 do Gilbert Newton Lewis đề xuất. Ông định nghĩa acid là chất nhận cặp e, và baz là chất cho cặp e.

Một số lý thuyết acid baz khác là Lý thuyết hệ dung môi (solvent-system theory), lý thuyết Lux-Flood, lý thuyết Usanovich. Lý thuyết hệ dung môi xuất hiện trước lý thuyết Lewis. Lý thuyết này coi dung môi có thể tách thành 2 phần tử mang điện tích âm và điện tích dương. Acid là chất khi cho vào dung môi làm tăng phần tử điện tích dương hoặc giảm phần tử mang điện tích âm. Baz thì ngược lại. Lý thuyết Lux-Flood định nghĩa acid là chất nhận ion O(2-), baz là chất cho ion O(2-). Lý thuyết Usanovich là lý thuyết tổng quát nhất. Lý thuyết này định nghĩa acid là chất nhận các phần tử mang điện tích âm hoặc cho các phần tử mang điện tích dương. Vì lý thuyết này bao hàm cả các pư oxy hóa khử nên ít được dùng.

Vào những năm 1930, các superacid bắt đầu được tổng hợp. Đến những năm 1970, SbF5 được thêm vào các superacid tạo ra các acid có độ mạnh hàng ngàn tỷ lần mạnh hơn H2SO4. George A Olah (Nobel Chemistry 1994) tổng hợp ra các acid này và ông gọi là các acid ma thuật. Các acid này có thể cho H+ cho bất kỳ chất nào. Superbaz xuất hiện từ những năm 1850. Các superbaz chủ yếu là các alkali-organyl như butyl-potassium có thể lấy H+ từ bất cứ chất nào.

Đến nay vẫn chưa có lý thuyết nào giải thích tính acid-baz của các superacid và superbaz. Chúng ta có quyền hy vọng các nhà HÓA HỌC Việt Nam sẽ đưa ra lý thuyết cho các acid - baz ma thuật này chăng ?

cho em hỏi vài nét về tính chất hoá học của chất đó…

Và ai đó làm ơn cho em biết vài công thức hoá học của các loại đá dễ bị phong hoá hoá học đi ạ… ( thay đổi tính chất hoá học trong dk thông thường hay mưa rơi…) thankss

H4SiO4 chỉ là 1 acid yếu thôi, pKa1=9.84, pKa2=13.2.

Tùy vào loại đá sẽ có thành phần chính khác nhau:

Ai cũng biết là chất xúc tác làm giảm năng lượng hoạt hóa. Vậy thì bằng cách nào mà chất xúc tác làm được như vậy và làm như thế nào? Trong phương trình Arrhenius k=Ae^(-Ea/RT) Chất xúc tác làm tăng vận tốc phản ứng bằng cách giảm Ea thì rõ rồi. Vậy chất xúc tác có làm tăng hệ số lũy thừa A hay không? Và như thế nào luôn nha :nhau (

Về cơ chế chung xúc tác làm giảm Ea của process, đó là do chất xúc tác tạo với tác chất phản ứng một intermediate có năng lượng bền hơn nếu là intermediate đó đứng riêng một mình mà ko có sự giúp đỡ của xúc tác. Chẳng hạn như một vài phản ứng hữu cơ mà xúc tác thấy rất rõ nhé : +Bạn lật tới bài alkene của sách hữu cơ thầy Thạch, sẽ thấy tác dụng của hệ xúc tác Ni - Pd tới việc hình thành intermediate, bằng cách hệ xúc tác này sẽ hấp phụ hydrogen, và chỉ đợi thằng alkene tới phản ứng, thao tác này làm giảm hẳn động năng của hydrogen, cũng như làm cho việc attack hydrogen vào double bond của alkene trở nên dễ dàng hơn. +MỘt phản ứng nữa, đó là xúc tác Hg2+ trong phản ứng ức chế phản ứng cộng vào alkyne, tác nhân là H2O, nó sẽ tạo ra intermediate vòng có năng lượng thấp hơn nhiều so với việc tạo trực tiếp carbocation mà cation site nằm ngay C sp2 - một nguyên tử có độ âm điện cũng cao ! Nên nhớ rằng, khi cation site đính trên nguyên tử có độ âm điện lớn thường rất không bền, năng lượng của hệ tăng cao !!! +Hay một phản ứng thú vị nữa mà ở đây, xúc tác cũng chính là môi trường tất yếu, đó là khi tổng hợp ra hợp chất Grihnar (hix, hình như ghi sai, mà đại loại là hợp chất hữu cơ kim loại hay hợp chất cơ kim), ether ở đây đóng vai trò là môi trừơng non-proton cho thằng cơ kim tồn tại, mặt khác, phải dùng ether chứ ko thể dùng những thằng khác vì Oxygen ở đây đem cặp electron của nó làm bền hoá sản phẩm. hix, nói tới đây mới thấy hơi nhầm, đây ko phải tác dụng xúc tác, nhưng nó cũng một phần thúc đẩy tiến trình phản ứng sinh ra cơ kim, để cho Oxygen làm bền.

Trong phương trình Arrhenius k=Ae^(-Ea/RT) Chất xúc tác làm tăng vận tốc phản ứng bằng cách giảm Ea thì rõ rồi. Vậy chất xúc tác có làm tăng hệ số lũy thừa A hay không? Và như thế nào luôn nha :nhau (

Cái này mình ko rõ lắm, phải nhờ mấy sếp catalyst như aqhl, hay nguyencyberchem, hanh_khat thui !!! :doctor (

Theo minh duoc biet thi chat phan cuc de tan (tan nhieu)trong dung moi phan cuc con chat ko phan cuc thi nguoc lai vd nhu pu KI +Cl2 tao thanh iot nhung ko ro khi cho benzen vao lac thi ta thay lop benzen co mau tim Cac bn giai thich gium minh voi

Cái này cũng dễ hiểu thôi bạn !!! Theo như bạn nói thì chất phân cực dễ tan trong dung môi phân cực và ngược lại, chứ đâu có nói là ko tan hoàn toàn đâu !!! Thực chất thì I2 có tan một phần trong benzene, tỉ lệ giữa I2 trong pha phân cực với I2 trong pha ko phân cực được gọi là hệ số phân bố !!! Hệ số phân bố trong những điều kiện nhiệt độ áp súat nhất định thì bằng constant !!! Thế nhé !!! :ot (

Chào mọi người trên diễn đàn ! Hôm nay trong giờ học anh văn chuyên ngành, thầy tui hỏi: em có nhìn thấy kính hiển vi điện tử chưa? sau đó thầy hỏi : ta có thể thấy được nguyên tử bằng kính hiển vi điện tử không ? Tui đã trả lời là không thấy được.Thầy tui nói là mình có thể nhìn thấy nguyên tử bằng kính hiển vi điện tử. Tui hong biết đúng hay sai nữa, nhưng theo tui biết là mình không thể thấy được nguyên tử bằng kính hiển vi mà. Thế ý kiến của mấy bạn thì sao ?

Anh vào đây tham khảo thử xem !!! Hình như kính hiển vi điện tử mô tả trong bài viết này là kính chuyên dụng để nhìn các nano material luôn !!!

Thầy anh phát biểu exactly ! :thohong(

Kính hiển vi thì có 3 loại chính: quang học, điện tử và đầu dò.

Kính hiển vi quang học, chiếu ánh sáng kha kiến vào mẫu, từ đó ghi nhận các tia sáng phản xạ, hoặc truyền qua. Độ phóng đại thấp khoảng 1500 lần, độ phân giải đến khoảng 2 micromet.

Kính hiển vi điện tử, chiếu chùm electron, sau đó ghi nhận các electron thứ cấp, electron phản xạ, hoặc truyền qua. Tùy vào cách ghi nhận electron mà có các loại kính hiển vi điện tử khác nhau (TEM, SEM, STEM, REM…). Độ phóng đại đến khoảng 2 triệu lần, độ phân giải đến khoảng angstrom.

Kính hiển vi đầu dò (probe microscope), dùng tip (đầu dò nguyên tử) rà gần bề mặt mẫu, ghi nhận tương tác điện hoặc từ giữa tip và các nguyên tử trên bề mặt. Có các loại khác nhau, STM, SPM, AFM, MFM…Độ phóng đại khoảng 5 triệu lần, độ phân giải đến nhỏ hơn angstrom.

Kính hiển vi có độ phân giải lớn nhất hiện nay, TEAM, độ phân giải ở khoảng 0.5 angstrom. Tuy nhiên chỉ cho hình ảnh 2 chiều, và đang nghiên cứu phân giải cho hình ảnh 3 chiều. Lúc đó mới có thể nhìn thấy rõ nguyên tử.

Ảnh TEAM của các nguyên tử C trong diamond:

HF là một axit yếu… trong nước phân ly thành các phức nên có khả năng tạo thành muối axit còn vì sao yếu thì do hàm lượng H3O+ của nó khi phân ly tạo ra không lớn lắm vì vậy thểhiện tính axit không mạnh ( là axit yếu nhất trong các họ axit) Còn các phức thì lần lượt HF2- H2F3-… chạy lên H4F5-… ^ ^ nhưng em cần câu trả lời chính xác hơn cho nguyên nhân HF yếu :hiphop (

HF yếu là do liên kết giữa H - F nội phân tử cũng như liên phân tử bền chặt, làm giảm hẳn tính acid của HF, nếu ta cắt được HF ra sẽ sinh ra một năng lượng rất lớn !!! Nhưng khi nồng độ của HF cao đến độ tinh khiết, tính acid tăng đột ngột ! Lí do: Xảy ra phương trình: 2HF –> H+ + FHF- anion FHF rất bền, có thể tìm thấy trong các muối như KHF2 hay NH4HF2 ! Do vậy, phương trình trên có khuynh hướng chuyển dịch về bên trái, và do đó, H+ sinh ra mãnh liệt, tính acid tăng ! :tantinh (

Em thực sự chưa hiểu lắm về cái từ chuẩn độ ở đây… theo em nghĩ chắc là xác định nồng độ của một chất trong dung môi của nó thôi phải không :nhamhiem hay là nó còn có một ý nghĩa khác trong hoá phân tích… Mà có ai hứng thú với các bài nhận biết tách chất ĐỒNG VỊ của cùng một nguyên tố không :ungho ( nếu ủng hộ em sẽ cùng mọi người thảo luận ( cái này chắc không thi QG nhưng :chui ( trên tiêu chí là học vì kiến thức và trúng em đam mê tách chiết nữa :water ( nên mọi người có hứng thú mình chơi cho vui :hiphop ( )

VD tách nước nặng và nước bình thường bằng một pp đơn giản nhất… nêu các giai đoạn của phương pháp :noel1 (

Hôm nọ em có đọc một tài liệu nào đó về điều chế khí Flo. Trong đó người ta có dùng chất K2MnF6. Em không biết nó là chất gì. Mong được mọi người giúp đỡ

K2MnF6 là một hợp chất có tính oxi hoá mạnh…lúc này Mn có số oxi hoá là +4 ( chất này có khả năng lên đến +6 trong K2MnO4 chẵng hạn) :nhacto ( khi cho tác dụng với acid nó sẽ giải phóng ra Flo… tuy nhiên điều chế Flo rất nguy hiễm vì nó có thể gây mù mắt ta ngay khi tiếp xúc và rất độc ( có màu lục nhạt khác với Clo màu vàng nhạt) có thể điều chế Flo bằng các cách khác vd như điện phân muối florua cũng ổn mà :noel3 (

Nước bình thường chứa chưa đến 200ppm D20. Quá trình tách : Cách 1/ Nguyên lý: có sự trao đổi của D2S và D2O. Ở nhiệt độ thấp deuteri từ H2S đi vào trong H20 và ngược lại ở nhiệt độ cao. Người ta dùng tháp cho nước nguội từ trên đi xuống và khí H2S nóng từ dưới đi lên. Ta sẽ có 1 phần nước giàu deuteri và 1 phần khí H2S giàu D2S. Lặp lại quá trình vài lần thu được nước có khoảng 30% D. Sau đó nước này được lọc đựa vào ái lực khác nhau của H và D để nước nặng dùng trong các lò phản ứng hạt nhân. Cách 2/ tương tự sự trao dổi trên nhưng dùng ammonia. Chắc chắn quá trình này còn co sự tham gia của chất xúc tác.

Clusius và Dickel phát triển phương pháp tách 2 đồng vị Cl bằng khuyếch tán nhiệt HCl năm 1939. Khuyếch tán nhiệt là hiện tượng xuất hiện gradient nồng độ hỗn hợp khí khi hiện diện gradient nhiệt độ.

Sơ đồ:

Cột tách chia làm 4 đoạn. Đoạn 1 gồm 2 ống thủy tinh, bên trong là dây tóc xoắn nhiệt độ 370 oC, bên ngoài ống là nhiệt độ phòng. 3 đoạn sau giống nhau, gồm 2 ống thủy tinh và dây tóc bên trong nhiệt độ 375 oC. Mỗi đoạn gồm 2 ống thủy tinh ghép lại, ngăn ko cho HCl quay ngược lại hệ thống.

Cấu trúc ống thủy tinh phần dưới:

Cấu trúc ống thủy tinh phần trên:

Khí HCl hình thành bằng cách cho acid HCl đậm đặc nhỏ vào acid H2SO4 đậm đặc. Để quá trình tách cân bằng khoảng 18-20 ngày ta thu được 2 phần, phần nặng và phần nhẹ chứa tỷ lệ các đồng vị khác nhau.

Tách 2 đồng vị trong pha lỏng: Ngoài pp tách trên pha khí, tách pha lỏng cũng được nghiên cứu: dùng các dẫn xuất chứa Cl như trichloroethylene, butyl, amyl, và hexyl chlorides, carbon tetrachloride…

Sơ đồ: ta cũng thu được 2 phần nặng nhẹ như ở pha khí.

@longrai: nghe nói chú còn nhiều “tuyệt chiêu” phần đồng vị, ta có 2 câu hỏi nhỏ cho chú đây: 1, làm sao xác định hàm lượng mỗi đồng vị ở từng phần nặng và nhẹ 2, làm sao tách các đồng vị của oxygen (câu này ko liên quan đền tách đồng vị Cl)

Urani giàu

Nguyên tố Urani, được phát hiện hơn 200 năm trước (năm 1789) bởi nhà hoá học M.G. Klapơrôt (người Đức).

Và tên nguyên tố này chính là tên gọi để kỷ niệm sự kiện phát hiện ngôi sao Urani, hay Thiên Vương Tinh trong Thái dương hệ của chúng ta.

Ngay từ đầu, nhiều đặc tính thông thường của Urani đã được khám phá.

Chẳng hạn, đó là kim loại nặng, màu trắng bạc, nhiệt độ nóng chảy 1133 độ C và nhiệt độ sôi là 3.500 độ C.

Chẳng có gì đáng chú ý nếu nguyên tố Urani không có một thuộc tính rất quan trọng - tính phóng xạ.

Chính với phát minh tia phóng xạ tự nhiên phát ra từ quặng Urani và Thôri, Marie Curie cùng chồng (Pierre Curie) và người thầy của mình (Henry Becquerel) đã được trao tặng Giải Nobel Vật lý năm 1903.

Không dừng ở đó, Marie Curie giành hẳn tám năm để tìm tòi những chất phóng xạ ẩn chứa trong quặng Urani và đưa đến cho nhân loại một công cụ quý giá sử dụng trong lĩnh vực y học, địa chất v.v…Và vinh quang lại đến với bà: Một giải Nobel thứ hai đã được trân trọng trao tặng riêng cho Marie Curie (1911), giải Nobel Hoá Học về phát minh các nguyên tố mới chưa hề biết trước đó - Radi và Poloni .

Nhưng quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất đối với Urani là tính chất phân hạch của U-235, được các nhà khoa học lỗi lạc E. Fermi (Ý), O. Hahn và Ph. Strassman (Đức) phát hiện vào những năm 30 của thế kỷ trước.

Dưới tác dụng của nơtron, hạt nhân U -235 bị phân ra hai mảnh, đồng thời giải phóng 2-3 nơtron mới và toả ra một năng lượng lớn 200 MeV (200 triệu điện tử-vôn).

Như đã nói ở trên, chỉ 1kg Urani giàu trong “Chú Nhóc Con” đã phát ra năng lượng khổng lồ tương đương 15 ngàn tấn *** TNT!

Chính tính chất này đã biến Urani thành một loại nhiên liệu lý tưởng sử dụng cho mục đích quân sự là chế tạo *** hạt nhân hoặc ứng dụng trong mục đích hoà bình là xây dựng nhà máy điện hạt nhân (dùng năng lượng hạt nhân làm ra điện).

Các tài liệu địa chất cho biết Urani tự nhiên tồn tại dưới dạng hỗn hợp ôxit urani U2O8 trong quặng pesơblin.

Quặng này là nguyên liệu xuất phát để điều chế kim loại nguyên chất hoặc các hợp chất khác.

Họ cũng xác định rằng lượng Urani có trong quả đất tương đối ít, hàm lượng trung bình trong đất đá chỉ chiếm khoảng ba phần triệu (3.10 4%), gần như cùng hàm lượng của các nguyên tố hiếm hoi khác như Bo, Môlipđen, Ytecbi và Tali.

Kim loại Urani lại gồm hai thành phần đồng vị chủ yếu, U-238 và U-235.

Trong đó, U-238 chiếm hàm lượng áp đảo với 99,7%. Còn đồng vị U-235 quá ư nghèo, chỉ chiếm 0,3% (tức 3 phần ngàn). Điều oái oăm là U-235 hiếm, nhưng quý. Vì chỉ U-235 mới tham gia phản ứng hạt nhân dây chuyền, một phản ứng cần thiết để duy trì sự cung cấp nhiệt cho hoạt động của nhà máy điện hay tạo nên vụ nổ cần thiết.

Nói cách khác, chỉnh hạt nhân U-235 này mới là nhiên liệu của nhà máy điện hạt nhân hoặc “***” của bom nguyên tử.

Trong thực tế, khó có thể tách được một lượng U-235 ròng tuyệt đối.

Chỉ có thể làm giàu đồng vị U-235 trong hỗn hợp kim loại Urani đến một tỉ lệ nhất định. Với độ giàu khoảng 5% (hay U-235 giàu 5%), kim loại hỗn hợp Urani đã có thể dùng làm nhiên liệu cho nhà máy điện hạt nhân.

Nhưng để làm chất nổ cho bom nguyên tử thì U-235 phải chiếm trên 90% trong hỗn hợp kim loại Urani. Người ta gọi đó là Urani ‘giàu’.

Công nghệ ‘làm giàu’ Urani

Như vậy, quá trình tăng thành phần U-235 trong kim loại hỗn hợp Urani được gọi là công nghệ làm giàu Urani.

Quá trình này trở nên rất quan trọng, nếu không nói là quyết định để biến chất Urani thành thứ vật liệu quý hiếm như vậy.

Phương pháp ly tâm để tách đồng vị U 235 ra khỏi U-238 dựa trên sự khác nhau về lực ly tâm của các phân tử khí nhẹ và nặng hơn. Sự tách riêng bằng phương pháp ly tâm được thực hiện trong các xy lanh quay. Hỗn hợp các phân tử các loại khác nhau khi đi vào các xy lanh quay được tách thành hai dòng. Những phân tử nặng hơn bị gạt ra vùng ngoại biên của máy ly tâm và chuyển động xuống dưới dọc theo thành ngoài, còn cũng những phân tử ấy nhưng nhẹ hơn thì bị đẩy vào phần trung tâm hướng lên trên dọc theo trục của máy ly tâm. Trong phương pháp này, U 238 và U 235 chỉ đạt được sự tách riêng hoàn toàn khi cho hỗn hợp khí đi qua máy liên tục hàng nghìn lần. (Theo ‘Định luật tuần hoàn và hệ thống tuần hoàn các nguyên tố của Mendeleep’. N.P.Agaphosin, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội-1981).

Hiện nay, có nhiều phương pháp để làm giàu Urani như: Tách đồng vị điện từ (Electromagnetic Isotope Separation), Khuếch tán nhiệt (Thermal Diffusion), Khuếch tán khí (Gaseous Diffusion), Khí động học (Aerodynamic Processes), tách đồng vị La-de (Laser Isotope Separation), Trao đổi iôn và hoá học (Chemical and Ion Exchange), Tách Plasma (Plasma Separation) và Khí ly tâm (Gas Centrifuge).

Phương pháp phổ biến để làm giàu Urani hiện nay là phương pháp ly tâm (Iran hiện đang sử dụng phương pháp này).

Muốn đạt độ giàu U-235 càng cao và thu được khối lượng nhiên liệu lớn, cần có nhiều máy ly tâm, hàng trăm, hàng nghìn và thậm chí hàng chục nghìn cỗ máy.

Rõ ràng, với hàng trăm máy siêu ly tâm đang làm việc hết công suất, Iran đã có công nghệ làm giàu Uran.

Quốc tế, trước hết là các siêu cường trong Hội đồng bảo an LHQ, đang hết sức quan ngại, đó cũng là điều dễ hiểu.

Không chỉ vậy, Iran còn làm tăng cơn sốt của cuộc khủng hoảng bằng tuyên bố về ý định xây dựng lò phản ứng hạt nhân nước nặng.