lý thuyết polyurethane, công nghệ, ứng dụng

Đầu trộn áp cao FP2L Đầu trộn áp cao buồng trộn kép Nhu cầu về thiết bị có thể tạo ra những bộ phận có nhiều hơn một công thức tăng cao (thí dụ, Công nghệ tạo cứng cho đệm) đã được đáp ưng bằng các đầu trộnCannon FP2L. Những đầu trộn này đặc trưng bằng buồng trộn dạng chữ L nhưng có hai buồng trộn độc lập nhau. Cannon FP2L 22 High-Pressure Mixing Head Hai buồng trộn được cấp bởi hai thành phần hóa chất độc lập (Cũng có thể sử dụng hai Isocyanate khác nhau và hai polyol khác nhau) hoặc máy ba thành phần (hai polyol khác nhau và một Isocyanate, chuyển đổi cho hai buồng trộn nhờ vào hệ thống van tự động). Điều này cho phép sử dụng hai công thức khác nhau cho cùng một khuôn hoặc trong các khuôn khác nhau, rất nhanh.

Để phối trộn hoàn hảo các công thức có biến thiên độ nhớt và lưu lượng ra cao, đầu trộn được gắn thêm một thiết bị cơ khí giúp điều khiển piston tự rửa trung tâm.

Lợi ích khác của đầu trộn Cannon FP2L nhờ vào khả năng lưu lượng ra cao, thực hiện trong đầu trộn nhỏ và khối lượng giới hạn. Điều này là yếu tố vô cùng quan trọng vì nó cho phép sử dụng robot hay ít nhân công hơn và khai thác tối đa lợi ích. làm việc nhanh hơn.

Gần đây đầu trộn mới FP2L 32 được tung ra thị trường giúp tăng khoảng đầu trộn áp suất cao của Cannon và nó cũng là đầu trộn lớn nhất mà Cannon sản xuất. Mẫu này được thiết kế đặc biệt dùng cho sản xuất mút mềm lạnh (cold flexible foams) cho đồ nội thất và công nghiệp xe hơi. Đầu trộn áp caoCannon FP2L 32 Đầu trộn này, nhờ có tổng lưu lượng ra lớn , có thể đáp ứng cho mút phức hợp và những sản phẩm lớn, đòi hỏi dùng nhiều mút. Về mặt này nó trở nên vô cùng quan trọng cho khách hàng sản xuất ghế bành và sofa có sẵn khung trực tiếp trong khuôn, các bộ phận đổ mút một bước hay nhiều bước. Trong trường hợp này, thành phẩm có thể có khối lượng từ vài trăm gram lên đến 40 kilogram. Loại và lưu lượng của đầu trộn dạng FP2L:

Hãy nhắc nhở để sửa chữa những ngôn từ mang nặng tính quảng cáo nhé!:24h_021:

LN Đầu trộn áp cao hai thành phần có buồng trộn ‘Thẳng - suốt’ Chức năng chính của đầu trộn là thực hiện và bảo đảm phối trộn hoàn hảo các hóa chất cũng như tối ưu hóa dòng chất ra (không bắn tung tóe hay tạo bẫy khí) để tạo ra mút chất lượng cao. Cannon LN 10 High-Pressure Mixing Head Đầu trộn này phù hợp cho sản xuất panel sandwich (panel có bề mặt kim loại ốp bên ngoài) không liên tục, đầu trộn LN có thể tạo ra mút cứng tỷ trọng thấp , nhờ có thiết kế buồng trộn thẳng suốt. Đơn giản và chắc chắn, kiểu đầu trộn LN được thiết kế để làm việc đổ khuôn kín.

Cannon cũng đã phát triển những mẫu rất nhẹ chuyên cho ứng dụng phun và lấp đầy các hốc. Cannon LN 30 High Pressure Mixing Head Đầu trộn Cannon LN hiện có các mẫu sau:

TRIO Đầu trộn áp cao ba thành phần cho chất độn rắn & chất mài mòn Cannon đã có hơn 30 năm sáng chế đầu trộn cho ứng dụng RRIM lưu lượng lớn và ứng dụng cho công thức polyure độ phản ứng cao. Kinh nghiệm Cannon có được từ lĩnh vực phối trộn - kết nối với các công trình nghiên cứu chuyên sâu về động lực học chất lỏng - cho ra đầu trộn áp cao siêu bền có thể làm việc với sợi thủy tinh, chất độn mài mòn, cát, v.v. TRIO 18 High-Pressure Mixing Head Đặc biệt quan trọng là làm sao phối trộn sợi và hóa chất trực tiếm bên trong buồng trộn. Đầu trộn TRIO có ba luồng đi vào buồng trộn, các kim phun gắn một một góc 120° so với nhau.

Thiết kế này giúp loại trừ sự tác động lẫn nhau theo cách truyền thống do sự khác nhau về áp suất đi ra và độ nhớt của hai dòng hóa chất khi kim phun nằm ở vị trí 180° so với nhau.

Để đạt được chất lượng phối trộn tốt nhất và lưu lượng ra cao nhất có thể, TRIO chia dòng ra lớn hơn (hoặc cái có độ nhớt cao hơn) vào hai vòi phun sẵn có, đưa thành phần thứ ba đến các thành phần khác. Điều chỉn đơn giản áp suất đổ, bằng ba kim phun đơn khác nhau, bảo đảm dòng chất cân bằng về động năng.

Đầu trộn Cannon TRIO hiện có các mẫu sau: Cannon Trio là đầu trộn có lưu lượng ra cao và có thể dùng cho công thức polyure khả năng phản ứng cao là vì:

[ul] [li]nó khi thác tối đa hiệu quả đặc tính cơ lý của công thức hiện đại, tối ưu hóa việc đổ các bộ phận trong khuôn; [/li][li]nó có thể làm việc với nhiều dạng vật liệu đưa vào, ngay cả khi chỉ dùng ba kim phun hiện có, giúp cho hiệu quả phối trộn không thay đổi; [/li][li]chu kỳ piston ngắn đảm bảo khả năng lặp lại và phun chính xác, bảo đảm chất lượng đổ khuôn cao ngay cả với những công thức có độ phản ứng cao; [/li][li]kết cấu đơn giản giúp dễ dàng trong việc sản xuất và tháo lắp bảo trì; [/li][li]thiết kế gói gọn cho phép sử dụng nhiều loại khuôn và giá mang khuôn. [/li][/ul][ul] [/ul]

AX Đầu trộn áp cao nhiều thành phần Ghế ngồi là một trong những thứ quan trọng và được đánh giá nhiều nhất trong lĩnh vực xe cộ, với yêu cầu phải kết hợp hài hòa giữa kiểu dáng và hiệu quả sử dụng. Thực tế, nó quyết định sự tiên nghi của xe; hiệu suất sử dung và độ bền lâu quyết định đến sự hài lòng của khách hàng. Với mục tiêu chính là giảm giá sản xuất và cải tiến chất lượng mút dưới điều kiện khí hậu, các nhà sản xuất xe hơi định rõ các đặc điểm kỹ thuật phức tạp của ghế ngồi để tăng sự linh hoạt sản xuất và tăng mức độ thân thiện với môi trường. Cannon AX Multi-Component High-Pressure Mixing Head Cannon AX được phát triển đặc biệt cho sản xuất các bộ phận mút mềm hay mút cho đồ nội thất dùng công thức nhiều thành phần sử dụng khuôn lạnh hay khuôn nóng. Trong đầu trộn AX, bốn thành phần hóa chất khác nhau có thể được bơm nhanh vào trong buồng trộn và hoàn lưu ở áp suất cao dọc theo bốn đường rãnh chuyển vào buồng trộn làm sạch piston trước khi tạo mút.

Isocyanates hay các thành phần kết hợp lưu lượng ra thấp (nước, silicon, xúc tác, v.v.) cũng có thể phun dọc trục qua piston đóng buồng trộn. Nó giúp các thành phần kết hợp cũng có thể hoàn lưu trực tiếp vào trong đầu trộn, bảo đảm lưu lượng ra hoàn hảo, áp suất phun ổn định và hiệu suất phối trộn tối đa.

Đặc biệt quan trọng là làm sao TDI, MDI hay hỗn hợp của cả hai Isocyanates (TM hay MT) có thể bơm được vào dòng hóa chất ở áp suất thấp chỉ 20 bar, cho kết quả phổi trộn thích hợp và đơn giản hóa tối đa hệ thống tiếp nạp ISO. Samples of Different Component Combinations Cannon AX hiện có các mẫu sau:

ZX đầu trộn phun khe hẹp, đường ống Cannon đã thử nghiệm thành công đầu trộn áp cao mới, thiết kế chuyên dụng cho cách nhiệt đường ống trong quy trình tạo mút liên tục hoặc không liên tục. Yêu cầu đặc biệt của ứng dụng này là đòi hỏi phát triển và hoàn thiện loại đầu trộn mới hoàn toàn đáp ứng những đòi hỏi kỹ thuật khắt khe và chuyên dụng. Sự gói gọn và có hình dạng mỏng chính là đặc điểm của đầu trộn áp cao mới Cannon ZX. Cannon ZX High-Pressure Mixing Head Chú ý rất quan trọng đó là độ dày của đầu trộn chỉ 25 mm! Điều này giúp nó có thể đi và trong hốc dọc theo trục ống thép để tạo ra đường ống có lớp phủ polyurehtan tỷ trọng cao. Cả hai đường ống chạy cùng chiều ở cùng tốc độ.

Cơ bản tên của đầu trộn được chọn theo dạng hình học mới của buồng trộn, có dạng bố trí kiểu chữ Z. Nó có bề rộng đặc trưng tối đa khoảng 20÷25 mm dễ thao tác nhời khổi lượng nhẹ (900 g cho loại A; 1.100 g loại B). Các hóa chất được bơm nhanh ở áp suất cao qua kim phun lò xo điều khiển bằng áp suất hóa chất.

Khi áp suất dòng nạp vượt quá độ mạnh của lò xo thì bắt đầu quá trình đổ. Hóa chất được trộn nhờ kim phun qua va chạm áp suất cao bên trong buồng trộn. Sự hỗn độn tạo ra trong quá trình phun chuyển thành động năng trong pha trộn, giúp trộn đều và tạo ra mút polyurethane chất lượng.

InterWet Đầu trộn áp cao gia cường sợi thủy tinh Đầu trộn này được nghiên cứu để dùng cho công nghệ phun đồng thời InterWet để gia cường thêm nhiều loại chất độn rắn. InterWet FPL 18 High-Pressure Mixing Head Hoạt động định lượng và nạp thành phần rắn từ phần trên của đầu trộn được điều khiển cơ học và được hỗ trợ bằng khí nén cực mạnh. Cung cấp diễn ra đồng thời vào hỗn hợp hóa chất lỏng trong buồng trộn.

Phần rắn được trộn với phần lỏng và chúng được phun đồng thời vào trong khuôn. Ý tưởng đổi mới trong giải pháp này đó là phần rắn gặp phần hóa chất lỏng ngay trước buồng trộn bên trong đầu trộn, tại đó luồng chất trộn với nhau qua một góc 90 độ.

Theo cách này, động năng từ áp suất của chất lỏng được dùng làm ướt dòng chất rắn đi qua. Thiết kế và kỹ thuật đặc biệt này giúp bảo đảm phần rắn được làm ướt hoàn toàn ở bên trong, do đó nó được đặt tên là: InterWet (làm ướt bên trong).

Hai kiểu đầu trộn kích cỡ khác nhau hiện có để đáp ứng cho những yêu cầu về lưu lượng ra khác nhau. Để tối ưu hóa hiệu suất và chất lượng hỗn hợp mút cần phải cân nhắc tỷ lệ giữa sợi thủy tinh và lợng PU đi ra sau đây Để sản xuất các bộ phân PU gia cường bằng sợi thủy tinh, trên đỉnh đầu trộn cần gắn thiết bị cắt chuyên dụng và tích hợp gọn. Bộ phận kéo và cắt điều khiển bằng thủy lực giúp linh hoạt tối đa khi muốn thay đổi lượng sơi thủy tinh bay ra. Điều chỉnh kích thước của sợi thủy tinh có thể dễ dàng tùy theo lượng dao gắn trên thiết bị cắt.

JL 24/6 Đầu trộn không vòi phun (Đầu trộn tốc độ cao) Cannon JL là hệ đầu trộn áp cao mới dạng “L”. Đầu trộn viết tắt JL nghĩa là “Jet Less-không dùng vòi phun” ý muốn nói quá trình trộn hai hóa chất không cần qua hai vòi phun. Chuyển động nhiễu loạn cao - hình thành và duy trì trong một buồng trộn nhỏ tương ứng trong đó dòng của hai hóa chất đi đến. hóa chất được định lượng trong một buồng thông thường và sau đó bơm vào buồng trộn kích thước không đổi, ở đó chúng đạt được năng lượng cần thiết. Cuối buồng trộn dòng chất chảy trệch một góc L vào trong một buồng lớn hơn, sự chuyển động hỗn loạn chậm lại và cho ra hỗn hợp trộn đều.

Để thêm thông tin hãy nhấn vào dòng này để tải về bài báo giới thiệu!

Đầu trộn polyurethane áp suất thấp Có nhiều loại đầu trộn áp thấp, tất cả đều gắn được các loại cánh khuấy phát triển cho nhiều ứng dụng khác nhau.

Hai cấu hình chính hiện có: đầu trộn “một que” và đầu trộn “hai que”. Hệ này cho phép mở và đóng các đường hóa chất bằng xylanh khí giúp có thể tuần hoàn hóa chất qua đầu trộn. Cannon Low-Pressure Mixing Heads Sự khác biệt ở đầu trộn này là sự phân phối cơ học của dòng chất giúp giữ cho hai hóa chất phân chia đúng vào lỗ phun, giúp ngăn sự nhiễm bẩn ngược.

Khoảng lưu lượng ra của các đầu trộn áp thấp hiện có nằm trong 0.2 gr/giây lên đến 500 kg/phút.

Trong những ứng dụng sử dụng hóa chất truyền thống, Cannon đã thiết kế loại đầu trộn áp thấp có hai hệ khuấy mạnh mẽ và nhiều loại đầu phun cho những ứng dụng sử dụng nhiều loại hóa chất lưu lượng ra thấp, đặc biệt đó là công nghệ lót kỹ thuật Cannon Gasketing. Đầu trộn áp thấp sử dụng nhiều loại hóa chất, dùng để tạo gioăng PU, gioăng cho chi tiết máy trong xe hơi, thiết bị điện…

công nghệ sản xuất PU các bạn có thể xem thêm ở đây

Công thức cơ bản cho sản xuất mút mềm polyurethane (plexible foam) Từ công thức cơ bản này, bạn có thể thay đổi các thành phần hóa học để pha chế sao cho phù hợp với ứng dụng của mình.

(Flexible Polyurethane foam chemistry - Không rõ tác giả:cool ()

Khái niệm về tế bào mở (Open cell) và tế bào kín (Closed cell) trong polyurethane Về nguyên tắc, tên gọi tế bào kín, và hở đã nói lên tất cả nghĩa đen thuần túy của nó. Tuy nhiên không phải ai cũng có điều kiện tiếp cận và có thể hình dung một cách trực quan thế nào là kín và hở trong tế bào mút PU. (Hình và nội dung (có bổ sung) lấy từ Polymer Foam Hanbook, Elsevier 2007)

  • Tế bào mở (hở) (Hình a): Là những tế bào có thành không kín nhờ đó không khí có thể đi từ tế bào này qua tế bào khác trong suốt khối mút. (Dạng lọc khí, nệm mút… là dạng tế bào hở).
  • Tế bào kín (đóng) (Hình b): là dạng mút mà mỗi tế bào có thành kín, không khí không thể di chuyển từ tế bào này qua tế bào khác. (Dạng mút cách nhiệt panel, tủ lạnh, bình nóng lạnh năng lượng mặt trời hay các dạng cách nhiệt khác sử dụng loại tế bào này)

Về nguyên tắc có thể điều chỉnh tế bào kín hay hở bằng lượng chất hoạt động bề mặt (Silicone).

Một số ứng dụng chính của các loại polyurethane (Ko đề cập sơn, keo, dược phẩm) Mút cứng (Rigid foam):

  • Cách nhiệt trong xây dựng (panel cách nhiệt), tủ lạnh, thiết bị làm lạnh, cách nhiệt đường ống, đồ trữ lạnh (thùng đá…);
  • Phao nổi, tàu cao tốc (bobo - bơm vào giữa hai thành), vách tàu đánh cá (giữ lạnh cá);
  • Đóng gói ( những đồ dễ vỡ, quý, sau khi bọc lớp nilon thì có thể phun PU vào giúp vận chuyển ko bị hỏng hóc, rơi vỡ)
  • Đồ nội thất
  • Đồ gia dụng (bình ủ nhiệt…)

Mút mềm (Flexible foam)

  • Đồ nội thất, bao gồm cả nệm giường (ghế sofar…), lọc khí
  • Ghế xe hơi, yên xe máy, ghế máy bay, ghế xe lửa…
  • Dệt may
  • thảm

Mút da liền, bán cứng, mút cấu trúc tỷ trọng thấp

  • Tay lái xe hơi, các chi tiết trên xe hơi,
  • Đồ nội thất.
  • Dụng cụ thể thao như là ván lướt sóng

Đàn hồi (Elastomer)

  • Đế dày
  • Thành xe ô tô (thường xe cao cấp hay dùng, khi chạm vào cảm giác đàn hồi)
  • Bánh xe
  • Băng tải,
  • gioăng cho các chi tiết xe hơi, gioăng tủ điện…
  • Sợi

(Copy từ MDI and TDI Safety Health)

Tầm quan trọng của bơm trong máy phun xốp polyurethane

Trong máy phun xốp polyurethane có ba bộ phận quan trọng nhất quyết định chất lượng máy cũng như sản phẩm tạo ra

Đầu trộn Bơm (metering pump - bơm định lượng) Bộ điều khiển

(Hình minh họa lấy từ Polyurethane as special chemical) Hiện tại, các máy phun xốp hoặc là sử dụng bơm bánh răng, hoặc sử dụng bơm piston. Những máy phun áp xuất thấp chủ yếu sử dụng bơm bánh răng. Các máy phun xốp áp cao, tùy vào nhu cầu và tài chính của khách hàng mà sử dụng bơm bánh răng hay bơm piston.

Tuy nhiên, dù sử dụng loại bơm gì đi chăng nữa thì yếu tố quan trọng của bơm đó là độ chính xác. Nhiều người chưa đi sâu vào vấn đề có thể nghĩ chỉ cần một bơm chịu được hóa chất, có độ bền lâu là đủ (giống kiểu bơm nước!). Nhưng thực tế với yêu cầu của máy phun polyurethane, để đảm bảo phun tỷ lệ các hóa chất theo đúng yêu cầu mới cho ra sản phẩm tốt, hoàn hảo, thì độ chính xác đòi hỏi gắt gao hơn nhiều. Hóa chất bơm ra cần phải đúng lưu lượng đã đặt theo chương trình điều khiển, tại mỗi thời điểm có thể điều chỉnh tức thời lưu lượng theo bộ điều (trường hợp sử dụng bộ phát hiện sai số), trong suốt thời gian phun xốp, lưu lượng mỗi hóa chất polyol, isocyanate và lưu lượng của polyurethane đi ra là hằng số là tối ưu (Ví dụ đặt tỷ lệ phun Pol:Iso là 1:1 thì bơm phải bơm sao cho suốt quá trình bơm tại thời điểm bất kỳ cũng phải là 1:1—> chắc chắn mút sẽ tốt (Trừ khi mua hóa chất dỏm, điều kiện phản ứng không theo đúng nhà sản xuất yêu cầu!).

Chính vì đòi hỏi như thế mà nhiều người khi sử dụng những thiết bị phun xốp rẻ tiền khi xem xét lượng cân của sản phẩm cuối cùng thấy đủ, nhưng sản phẩm vẫn không tốt, bị lỗi này lỗi nọ (phổ biến là mút không đều, bị co ngót…) Điều đó cơ bản là vì loại bơm sử dụng không đáp ứng được yêu cầu giữ lưu lượng mỗi hóa chất cố định trong suốt quá trình phun (ví dụ phun ở tỷ lệ Pol:iso đặt là 1:1 thì 1/3 thời gian đầu là 1:1; 1/3 thời gian tiếp là 1:0.8 rồi 1/3 thời gian tiếp theo là 1:1.2 chẳng hạn –> khi đó coi như là mút đã bị hỏng mặc dù máy vẫn hoạt động có vẻ như bình thường!:24h_040:)

Hình ảnh mô phỏng các quy trình sản xuất polyurethane

  • Sản xuất mút khối mềm liên tục (trái) và sản xuất panel, tấm lợp liên tục (hình phải)

  • Một số hình thức đổ polyurethane vào khuôn và dạng phun cách nhiệt đường ống (Hình ảnh lấy từ MDI and TDI Safety Health)

[b]Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và tự sản xuất dạng polyurethane đàn hồi (dạng làm gioăng, phớt, làm ru lô). Về cơ bản mình không phải chuyên gia về lĩnh vực này, nhưng có một số bạn hỏi. Đã tìm hiểu qua một vài tài liệu, hỏi mấy người bán hóa chất và thực địa xưởng sản xuất. Do đó cũng mạo muội nêu một vài kỹ thuật đơn giản cơ bản để có thể tạo ra loại gioăng PU đáp ứng được nhu cầu thị trường.

Bài viết sẽ cập nhật vào đầu tuần tới. Nếu bạn nào có kinh nghiệm về lĩnh vực này hãy bổ sung hoặc viết toàn bộ cho dạng PU elastomer này nhé! [/b]

Mô hình tạo polymer hóa một phần - tiền polymer hóa (prepolymer) trong sản xuất elastomer

(Lấy từ Castable polyurethane Elastomer)

Phần nắp của bộ ủ nhiệt cần có những yêu cầu sau:

  • Đường Isocyanate vào
  • Đường Polyol vào
  • Đường vào cho các phần phụ gia
  • Đường Nitơ vào
  • Đường hút chân không
  • Đĩa vỡ áp
  • Van giảm áp
  • Đồng hồ đo áp
  • Mặt kính quan sát tổng thể
  • Chỗ đặt trục khuấy

Quy trình cơ bản để sản xuất PU đàn hồi dạng tiền polymer:

  • Chuẩn bị các tính toán thông số (lượng hóa chất, khuôn) để sản xuất
  • Lên chương trình cho máy, nếu dùng máy
  • Kiểm tra độ sạch của thiết bị trước khi sx.
  • Gia nhiệt nguyên liệu sử dụng (MDI tinh khiết cho elastomer dạng rắn, cần gia nhiệt để chảy ra)
  • Kiểm tra các van, khóa hoạt động tốt ko (trên thiết bị nếu có)
  • Nạp ni tơ vào bình phản ứng
  • Cân và ghi lượng Isocyanate cần cho một mẻ và ghi lại.
  • Đưa Isocyanate gia nhiệt lên đến 40 - 50 độ C.
  • Điều chỉnh độ a xít và ghi lại lượng dùng.
  • Từ từ cho polyol vào kéo dài trong khoảng 1 đến 2 giờ.
  • Nếu nhiệt độ tăng lên nhanh quá thì cho polyol chậm lại hoặc tạm dừng cho polyol vào.
  • Nếu nhiệt độ lên đến hơn 85 độ C, ngừng cho polyol vào và tiến hành làm lạnh bên ngoài.
  • Sau khi đã cho hết polyol vào, nâng nhiệt từ từ lên đến mức nhà cung cấp hóa chất đưa cho để phản ứng xảy ra hoàn toàn.
  • Hút chân không để giảm bớt hơi isocyanate và bẫy khí.
  • Theo dõi độ nhớt và mức độ NCO ở giai đoạn cuối.
  • Khi thấy độ nhớt đúng (mức NCO kiểm tra phù hợp) xả hóa chất ra thùng chứa.
  • Quá trình xả ra diễn ra trong vài giây, nếu cần thiết hạ cả nhiệt độ bình phản ứng.
  • Kiểm tra chất lượng hóa chất tiền polyme trước khi đem bán hoặc sử dụng để ủ vào khuôn.

Phân biệt dạng TPU và dạng tiền polymer (prepolymer)

  • TPU (Thermoplastic Polyurethanes): Thường sử dụng các máy nhựa truyền thống để chế biến ra sản phẩm cuối cùng (Ép phun, ép đùn, cán…), khi gia nhiệt lên đến 120 hay 150 độ C thì TPU mềm ra và dễ dàng cho quá trình xử lý. TPU là dạng polyme có chiều dài cố định, không thể tăng chiều dài mạch thêm được nữa.

  • Polyurethane đúc khuôn (Castable Polyurethanes): Nguyên liệu là dạng tiền polyme có chứa các đuôi cyanate NCO hoạt động. Các nhóm isocyanate này phản ứng với các diamine hay diol trong quá trình ủ khuôn để tăng chiều dài mạch polyme.

Lý thuyết cơ bản về dạng polyurethane đàn hồi (Elastomer)

Elastomer Hai đặc trưng cơ bản của polyurethane đàn hồi đó là: mạch polyme có độ linh động cao (tức là nhiệt thủy tinh hóa thấp hơn khoảng nhiệt sử dụng vật liệu) và tồn tại đồng thời cả liên kết hóa học lẫn liên kết vật lý. Độ linh hoạt của mạch cho phép vật liệu biến dạng cao (co duỗi mạch polyme) đồng thời các liên kết ngang giúp ngăn sự trượt của mạch polyme. Polyether, polyester hoặc chuỗi polybutadiene có trọng lượng phân tử trên 1.000 đáp ứng được điều kiện đầu tiên (linh hoạt cao). Nhiệt thủy tinh hóa của những vật liệu này thường nằm khoảng giữa – 40 đến – 80 độ C. Polyurethane đàn hồi có thể là hệ một pha hoặc hai pha. Hệ một pha chứa các liên kết ngang hóa học đồng nhất. Hệ hai pha là các copolyme khối chứa pha cứng và pha mềm phân cách nhau. Các khối này được gọi là các phân đoạn (segment). Phụ thuộc sự khác nhau về cấu trúc mà các khối không hòa trộn vào nhau mà phân chia thành các vùng riêng (“domain”). Xem hình biểu diễn các phân đoạn bên dưới. Phần cứng thường được tạo ra từ các isocyanate chứa vòng benzen và các glycol hay diamine ngắn (chất tăng mạch – phản ứng để nối các isocyanate làm tăng độ dài mạch polyme). Các phần cứng liền kề được giữ với nhau bằng lực Van der Vaals và liên kết hidro, hình thành lên các vùng riêng biệt nhờ liên kết ngang vật lý. Các phân đoạn polyurethane thường được tạo ra bằng quá trình tạo tiền polyme (1) và phản ứng tăng mạch (2). Tiền polyme (prepolymer) được tạo ra bằng cách cho phản ứng giữa lượng dư isocyanate với polyol (diol- polyol chứa hai nhóm OH), khối lượng phân tử thường vào khoảng 2000. (Hình 1) Chất tăng mạch thường dùng là butanediol hay các diamine. Một quá trình sản xuất đặc trưng gồm có trộn MID và polyol ở 80 độ C trong nhiều giờ dưới điều kiện khí trơ. Sau đó chất tăng mạch được cho thêm vào và khuấy cho đến khi nhiệt độ bắt đầu tăng lên. Vật liệu sau đó được đổ vào khuôn và nâng nhiệt lên đến 110 – 130 độ C trong nhiều giờ để đẩy mạnh lưu hóa. Lưu hóa sau đó tiến hành trong khoảng 24 giờ ở nhiệt độ 110 độ C để phản ứng hóa học xảy ra hoàn toàn. Tạo ra dạng polyurethane đàn hồi từ tiền polyme và chất tăng mạch, quá trình diễn ra như phản ứng sau: Hình 2 Phương pháp này sản xuất ra được polyurethane đàn hồi có thành phần kiểm soát được. Ngoài ra, polyme cũng có thể sản xuất được bằng quá trình phun một lần (“one shot”), ở đây tất cả các thành phần hóa chất được trộn cùng nhau tại cùng thời điểm. Kết quả là polyme có thành phần mang tính chất thống kê (phân bố ngẫu nhiên giữa polyol và chất tăng mạch trong chuỗi polyme), phụ thuộc vào hoạt tính hóa học và sự khác biệt của diol tương ứng. Tính chất cũng khác nhau phụ thuộc vào polyme được tạo ra từ quá trình tạo tiền polyme trước đó. Nồng độ của phân đoạn mềm được điều khiển bằng tỷ lệ chất tăng mạch/polyol. Khi ép lực lên polyurethane đàn hồi, phân đoạn mềm duỗi ra tạo nên sự biến dạng, trong khi phần cứng ngăn sự trượt của mạch, tạo nên sự biến dạng cưỡng bức. Tính chất của polyurethane đàn hồi phụ thuộc vào loại diisocyanate, chất tăng mạch và polyol kể cả phụ thuộc vào kích thước và nồng độ của phân đoạn mềm và phân đoạn cứng. Phân đoạn cứng ở nồng độ thấp (dưới 30% khối lượng) các vùng cứng sẽ có hình cầu phân tán (liên tục) trong mạng pha mềm. Tăng nồng độ phân đoạn cứng, hình cầu chuyển sang dạng elip và thon dài ra dần cho đến khi có dạng hình que. Khi mỗi pha chiếm 50%, hình thái giống như những phiến mỏng, tức là, cấu trúc chứa tuần tự những lớp của pha cứng và pha mềm. Khi nồng độ phần cứng cao hơn một chút, lúc đó xảy ra sự đảo pha và phần pha mềm trở nên không liên tục phân tán trong pha cứng. Do đó, khi tăng nồng độ phân đoạn mềm từ không đến giá trị cực đại, hai pha đảo lại thấy rõ, đầu tiên xảy ra khi pha mềm trở nên liên tục (đặc trưng ở khoảng 35% nồng độ pha mềm) và tiếp theo khi pha cứng trở thành không liên tục (đặc trưng ở 65% nồng độ pha mềm). Polyurethane ở mức nồng độ pha mềm thấp thì dai, giống kiểu nylon, ở nồng độ pha mềm cao thì vật liệu trở nên đàn hồi mềm (độ cứng thấp). Nồng độ trung bình cho ra dạng đàn hồi cứng. Sự tách pha có thể diễn ra vì không thể trộn lẫn giữa phân đoạn cứng và phân đoạn mềm. Độ tách pha (hay trộn pha) ảnh hưởng lên tính chất của polymer và nó phụ thuộc vào cấu trúc của phần cứng và phần mềm, kể cả phụ thuộc vào nhiệt độ. Thường pha cứng là dạng tinh thể. Thí dụ, điểm chảy của phần cứng chứa MDI và butane diol nằm trong khoảng 180 đến 200 độ C, và nó phụ thuộc vào khối lượng phân tử của phân đoạn cứng. Nhiệt thủy tinh hóa của phần vô định hình của phần cứng phân tử lượng cao khoảng 80 độ C. Sự trộn pha ở trên điểm chảy xảy ra chủ yếu và ở polyester polyurethane thì cao hơn ở polyether polyurethane. Phần mềm của Polybutadiene và đặc biệt là silicone phần mềm hầu như tách pha hoàn toàn ngay cả ở dạng chảy. Bằng cách tôi lúc chảy, có thể trộn cấu trúc pha ở mức độ nào đó, tuy nhiên nó sẽ không ổn định và bị biến đổi theo thời gian. Làm lạnh từ từ trạng thái chảy hoặc tạo ra bản mỏng từ dung dịch sẽ cho ra độ tách pha cực đại. Công nghệ elastomer thường sử dụng MDI, mặc dù dạng đàn hồi đầu tiên do Bayer sản xuất dựa trên diisocyanate là NDI. TDI về nguyên tắc không cho độ đàn hồi cao trừ khi sử dụng chất tăng mạch là diamine chứa vòng benzen. Phân đoạn mềm polyester chịu nhiệt tốt hơn, bền oxi hóa, chịu dầu, chịu dung môi, chịu mài mòn cao và tăng độ bền cho elastomer, nhưng dạng elastomer này kém bền với nước, a xit, bazơ so với polyether urethane. Polyether urethane nói chung có Tg (nhiệt thủy tinh hóa) thấp và phù hợp với điều kiện nhiệt độ thấp. Phân đoạn mềm hình thành từ polypropylene oxit không chuyển thành tinh thể dưới bất kỳ điều kiện nào và có độ linh động tuyệt hảo. Polyurethane dựa trên PTMO (polytetramethylene oxide) có những đặc tính siêu cấp và có sự cân bằng hoàn hảo giữa các tính chất. Chất tăng mạch thường dùng nhất là butanediol, nhưng khi cần các modun lớn hơn hay sức bền cao hơn thì cần sử dụng chất tăng mạch dạng aliphatic – aromatic (các chất chứa vòng benzen gốc béo) như là p-bis(hydroxyethoxy)benzen hay các diamine chứa vòng benzen gốc béo. Các amine ban đầu quá nhanh và không phù hợp cho việc sản xuất ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Chất làm chậm phản ứng có thể được đưa vào nhằm cản trở về mặt không gian như là 3,3’ – dichloro -4,4’ – diamino phenylmethane (MOCA): MOCA là chất gây ung thư mạnh do đó cần được sử dụng thật cẩn thận, an toàn. Một cách tác động lên tính chất của urethane elastomer là dùng lượng dư isocyanate. Nếu NCO/OH cao hơn một, kết quả polyurethane sẽ có độ cứng và độ bền cao hơn. Tối ưu dư NCO khoảng 2-5% . Phân tử lượng của polyol (phân đoạn mềm) ảnh hưởng lên modun của elastomer. Polyol càng dài thì làm cho elastomer càng mềm. Nhiệt thủy tinh hóa của pha mềm trong elastomer dựa trên polytetramethyleneoxide là – 43 độ C khi phân tử lượng của polyol là 650, Tg = -60 độ C cho polyol Mc = 1000 và Tg = -80 đối với Mc = 2000. Do đó, với elastomer bán cứng và dạng foam (mút), phân tử lượng của polyol cần bé hơn 1000. Modun của polyurethane elastomer có thể nâng lên bằng cách thêm chất độn. Các yếu tố ảnh hưởng lên tính chất của polyurethane elastomer được tổng kết như sau:

  1. cấu trúc của polyol

  2. kiểu diisocyanate

  3. kiểu chất tăng mạch

  4. tỷ lệ mol NCO/OH

  5. nồng độ phân đoạn mềm

  6. khối lượng phân tử của polyol

  7. chất độn

    Trong tất cả các trường hợp trên, cần phải hiểu rằng chuỗi mạch polymer là thẳng còn liên kết ngang nhờ và những liên kết vật lý. Những polymer như vậy thể hiện tính chất nhiệt dẻo đặc trưng (thermoplastic)., thí dụ chúng chảy ra khi được gia nhiệt và cứng lại khi làm lạnh. Các phân vùng bị phá hủy khi ở trên điểm nóng chảy của pha cứng nhưng được định hình lại khi làm lạnh, thể hiện tính thuận nghịch của liên kết ngang. Những vật liệu như thế được gọi là “thermoplastic urethanes” (TPU). Tính chất của urethane nhiệt dẻo phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ và sức bền của chúng giảm đột ngột khi ở trên nhiệt thủy tinh hóa của phân đoạn cứng (trên 100 độ C). Chúng cũng thể hiện tính biến dạng bất thuận nghịch nếu nén và giữ trong thời gian dài, đặc biệt là trong điều kiện nhiệt độ.

    Có nhóm polyurethane khác trong đó các liên kết ngang hóa học tạo ra với chất tạo liên kết ngang như là triol hay polyamine hoặc polyisocyanate. Chúng là những elastomer một pha và chúng thể hiện sức bền thấp hơn TPU. Tuy nhiên, tính chất ít chịu tác động bởi nhiệt độ và khả năng hồi phục cao nói chung lại tốt hơn TPU. Sức bền của chúng có thể được cải thiện bằng cách thêm các chất độn thích hợp. Những hệ như thế được gọi là “hệ đúc cast system” vì chúng được thực hiện bằng quá trình đúc các thành phần lỏng vào trong khuôn. Độ cứng của loại elastomer này chịu ảnh hưởng bởi phân tử lượng của polyol và các nhóm chức tương ứng của polyol.

(Phần lý thuyết cơ bản lấy từ Polymer synthesis handbook SRC)

Bạn có thể cho mình thêm kiến thức về các chế phẩm từ polyurethane như là PU 235 là dung dịch hổn hợp nhựa PU với dung môi dùng làm chất hoạt động bề mặt trong sản xuất Vải tráng phủ (vải giả da PU)? Mình đang so sánh về công nghệ, các thành phần để sx vải giả da từ PVC và PU đấy mà. Rất mong nhận tin của bạn. xin mail về duckhanh74@gmail.com. Thanks